|  Đăng nhập
Select the search type
 
  • Site
  • Web
Search

 

Tiêu đề: DẰNG DẶC NỖI HOÀI HƯƠNG...
Tác giả: Phạm Tuấn Vũ


Đường thi là đỉnh cao của lịch sử thơ ca Trung Hoa nói riêng và văn minh thế giới nói chung. Ở thơ Đường, xét trên phương diện nội dung, đề tài thơ rất phong phú và hầu như mảng nào cũng đạt đến trình độ mẫu mực với nhiều thi phẩm xuất sắc. Quê hương là một đề tài phổ biến và rất thành công trong thơ Đường. Không phải ngẫu nhiên mà trong số 10 bài thơ (cả đọc chính và đọc thêm) được tuyển chọn đưa vào nhà trường phổ thông (05 bài trong sách Ngữ văn 7, tập 1 và 05 bài ở Ngữ văn 10, Cơ bản, tập 1) có đến 04 bài liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến đề tài này. Đó là các bài Tĩnh dạ tư (Lý Bạch), Hồi hương ngẫu thư (Hạ Tri Chương), Thu hứng (Đỗ Phủ) và Hoàng Hạc lâu (Thôi Hiệu).

Đặc điểm chung của quê hương trong các bài thơ này, đó đều là những “cố hương”. Khác với quê hương đang hiện hữu trong thực tại cùng con người, quê hương trong các bài thơ trên đều thuộc về kí ức xa xăm và mịt mờ “khuất bóng hoàng hôn” đối với nhà thơ. Cả không gian lẫn thời gian, mảnh đất chôn nhau cắt rốn hiện tại đang cách rất xa chủ thể trữ tình. Trong Tĩnh dạ tư, đó là một “cố hương” xa ngút ngàn tưởng đến nhạt nhòa như ánh trăng rọi nơi đầu giường khi tác giả đang là kẻ đường dài lữ thứ nhiều năm xa quê, đi mãi khó về. Trong Thu hứng, đó là mảnh vườn cũ (cố viên), nói rộng ra là quê cũ (cố hương) đã nhiều năm xa cách, bởi lúc này, năm 766, Thánh thơ Đỗ Phủ đang ở tạm tại Quỳ Châu cách xa quê nhà Hà Nam cả ngàn dặm. Trong Hoàng Hạc lâu, đó là quê nhà (hương quan) mờ mịt trong khói sóng hoàng hôn không biết nơi nào định hướng. Riêng trong bài Hồi hương ngẫu thư, quê hương hiện ra khi thi nhân vừa đặt chân đến thôn làng. Quê hương là hiện thực trước mắt. Nhưng ngay trước đó, khi bước chân thi nhân chưa về đến quê nhà, nhà thơ cũng từng gần một đời người xa quê, “khi đi trẻ, lúc về già”, cho nên chắc chắn đã từng có một cố hương khắc khoải trong những tháng năm dài ra đi biền biệt. Đó chính là nơi dồn nén mọi cung bậc cảm xúc cho một câu hỏi ngây ngô của mấy trẻ nhi đồng “khách nơi nào đến vậy” làm tất cả vỡ òa.

Trong các hoàn cảnh, có lẽ khi xa quê người ta mới cảm nhận về quê hương sâu sắc nhất. Quê hương trong các bài thơ trên đều là những cố hương của những người li hương, tha hương. Chính bởi xa quê, tình yêu quê lại càng sâu đậm hơn bao giờ hết. Bởi vậy, quê hương trong các bài thơ đều hiện lên trong nỗi nhớ mong, khắc khoải, ngậm ngùi. Đó là nỗi nhớ thương, buồn bã của kẻ xa quê “ngẩng đầu nhìn trăng sáng” (cử đầu vọng minh nguyệt) rồi cúi đầu lặng lẽ nghĩ về cố hương (đê đầu tư cố hương) giữa đêm trăng yên tĩnh nơi đất khách quê người trong Tĩnh dạ tư. Đó là “nỗi lòng riêng tư của Đỗ Phủ nhưng cũng chan chứa tâm sự yêu nước, thương đời” (Ngữ văn 10, Cơ bản, tập 1, NXB Giáo dục, H., 2006, tr. 147) và nhớ quê, thương nhà trong cảnh thu hiu hắt, tiêu điều trong Thu hứng. Trong Hoàng Hạc lâu, đó là nỗi lòng ưu tư, hụt hẫng, buồn sầu khi quê hương đã trở nên xa tít tắp, mù mịt, chẳng còn biết ở hướng nào của kẻ lữ hành phiêu bạt trước cảnh khói sóng chiều buông. Còn trong bài Hồi hương ngẫu thư, tác giả không nói đến nỗi “tư hương”, “hoài hương” (nhớ quê, mong quê) nhưng chi tiết “giọng quê không đổi” (hương âm vô cải) dù cho bụi thời gian làm bạc mái đầu (mấn mao tồi) sau hơn nửa cuộc đời “trẻ đi, già lại trở về” (thiếu tiểu li gia, lão đại hồi) bôn ba nơi đất khách cũng đủ nói lên tấm lòng đau đáu, nhớ mong. Bởi nếu không nhớ thương, ngóng đợi ngày trở về quê cũ, thì làm sao có thể khẳng định một cách dứt khoát, tự hào “hương âm vô cải”. Tình cảm quê hương là một trong những thứ tình cảm thiêng liêng, sâu đậm nhất của con người. Nó có nhiều cung bậc khác nhau. Trong các bài thơ Đường này, tình cảm ấy đều chung một cung bậc là nỗi nhớ mong, đau đáu, ngậm ngùi. Đây chính là “một tấc lòng quê” (“nhất phiến hương tâm” - Nguyễn Du) đẹp đẽ trong mỗi thi nhân. Nó cũng chính là nơi chôn chặt, dồn nén nhiều cảm xúc để rồi khi có một tác động, dù rất nhỏ, sẽ bung tỏa, thăng hoa.

Nỗi nhớ mong, khắc khoải về cố hương trong các bài thơ trên không phải là một khoảnh khắc trạng thái tâm lí nhất thời. Đó dường như là sự dồn nén đến đỉnh điểm của những chuỗi dài cảm xúc trong nhiều năm tháng xa nhà chôn chặt trong tận sâu đáy lòng mỗi nhà thơ. Bởi vậy, như giọt nước làm tràn li, khi có một tác động dù rất nhỏ, cũng đủ làm tất cả vỡ òa, không thể kìm nén được nữa. Cho nên có thể nói, quê hương trong các bài thơ Đường trên được hiện lên rõ nét nhất qua sự dâng trào, bung tỏa trong cảm xúc của mỗi thi nhân. Có người cho rằng Thi tiên Lý Bạch dường như “lãng mạn” hơi quá khi chỉ một ánh trăng rọi nơi đầu giường như mọi ánh trăng mà cũng chạnh lòng nhớ quê. Quả đây là một nhận xét hết sức phiến diện. Không phải ngẫu nhiên khi người ta cho rằng Tĩnh dạ tư là một trong những bài thơ xuất sắc nhất của Lý Bạch nói riêng, của mảng thơ “vọng nguyệt hoài hương” (trông trăng nhớ quê) trong thơ Đường nói chung. Hơn nữa, cùng với rượu và kiếm, trăng thấm đẫm trong thơ Lý Bạch nhưng hiếm có ánh trăng nào vừa đơn sơ lại vừa ám ảnh, ngậm ngùi như ánh trăng trong Tĩnh dạ tư. Thật ra, ánh trăng sáng nơi đầu giường chỉ là một cái cớ, một chất xúc tác cho cả quá trình diễn biến tâm lí kéo dài, nén chặt về nỗi tư hương trong thi nhân được đạt đến đỉnh điểm và bộc phát một cách chân thành. Nếu chỉ thoáng nhớ quê thì làm sao vừa “ngẩng đầu nhìn trăng sáng” đã có cái cúi đầu lặng lẽ nghĩ đến quê nhà. Cho nên lời thơ trong bài giản dị nhưng ý thơ khôn cùng.

Cũng vậy, trong Thu hứng, Hoàng Hạc lâu, nếu chỉ là “tức cảnh” vội “sinh tình” thì làm sao chỉ một “con thuyền lẻ loi” (cô chu) đã có thể buộc chặt mãi (nhất hệ) tấm lòng nhớ nơi vườn cũ (cố viên tâm); làm sao chỉ một làn khói sóng trên sông lúc cuối ngày cũng khiến lòng người sầu muộn mà thảng thốt cất lên câu hỏi ngậm ngùi “quê nhà ở nơi nào” (hương quan hà xứ thị). Đặc biệt trong bài Hồi hương ngẫu thư, tác giả không hề nói đến cảm xúc của mình trong buổi mới về quê, nhưng một câu cười hỏi hồn nhiên “khách từ nơi nào đến” (khách tòng hà xứ lai) gợi nên nhiều điều về tâm trạng “làm khách trên chính quê nhà” phức tạp của thi nhân lúc này: Có buồn cười, có tủi giận, có hụt hẫng, có ngậm ngùi, xót xa, lạc lõng... Vấn đề ở chỗ, nếu chỉ một câu hỏi bình thường của bọn trẻ mới lớn, chưa từng gặp “vị khách” này thì làm sao khiến chủ thể trữ tình có nhiều cảm xúc buồn vui khó tả như vậy. Hóa ra, người ta càng trông mong ngóng đợi ngày về bao nhiêu thì khi không được nhận ra, thấy nhau mà chẳng biết nhau (tương kiến bất tương thức), càng ngậm ngùi, xót xa, hụt hẫng bấy nhiêu. Rõ ràng, nỗi nhớ mong và lòng trông đợi ngày trở lại quê hương luôn thường trực, ấp ủ trong lòng người đi từ thời trai trẻ. Cho nên, một câu hỏi ngây thơ, vô tình cũng đủ làm trào dâng nhiều cung bậc cảm xúc.

Tình cảm quê hương bao giờ cũng thiêng liêng, cao đẹp, là mạch nguồn giá trị làm nên sức sống lâu bền cho mỗi thi phẩm. Tuy nhiên, mức độ biểu hiện của nó không giống nhau. Điều này cũng dễ hiểu thôi, bởi mỗi bài thơ là một thế giới nghệ thuật sống động, giàu có và không lặp lại bao giờ, nhất là đối với những tác phẩm xuất sắc. Con đường tiếp cận, khám phá thế giới bao la của tác phẩm do vậy sẽ khác nhau và cũng thú vị hơn rất nhiều

P.T.V

Quay về
VĂN
BIỂN HÁT
SÁNG ĐẦY HƯƠNG GIỮA MÙA SEN
NHÀ VĂN NGUYỄN CHÍ TRUNG LÝ TƯỞNG, NHÂN CÁCH, SÁNG TẠO
BÉ MỌN
VIỆT AN CỐ SỰ
THƠ
TƯỢNG ĐÀI VĨNH CỬU
GIỌT THỜI GIAN
VIẾT BÊN MỘ NHÀ THƠ NGUYỄN MỸ
CHỊ ƠI!...
THỂ NGHIỆM HÈ
LỜI SÓNG
TIẾNG HÁT THỜI GIAN
BẢN GIAO HƯỞNG MÙA HÈ
NGÔI LÀNG XƯA
HOA BÂNG KHUÂNG
NGÀY ẤY
NHỚ
QUA CHIỀU THẠCH HÃN + XÓM KHÔNG CHỒNG
EM VÀ MÙA HẠ + NGỌN LỬA
GIÓ CŨNG SANG SÔNG + BỀNH BỒNG SƯƠNG MAI
NGẪU HỨNG 3 CÂU + LỜI RU TRÊN SÔNG
VA CHẠM + NẾP NHĂN VĨNH CỬU
LÁ ĐA + CẦN KIỆM MO
CÂU CHUYỆN CỦA LÀNG
NGHIÊN CỨU - LÝ LUẬN - PHÊ BÌNH
THƠ VÀ CÁC SINH THÚ KHÁC TRONG TRUYỆN KIỀU
HÌNH TƯỢNG GIẾNG NƯỚC TRONG CA DAO
TRÀ DƯ TỬU HẬU
CÀ KÊ CHUYỆN... CHỬI!
VĂN HỌC - HỌC VĂN
DẰNG DẶC NỖI HOÀI HƯƠNG...