|  Đăng nhập
Select the search type
 
  • Site
  • Web
Search

 

Tiêu đề: Bài thơ sông núi
Tác giả: Nguyễn Đức Dũng
Ghi chép

I. Khởi hành:
Sau chuyến “giang hồ” bốn huyện miền núi tỉnh nhà vào mùa hè năm ngoái của nhóm bạn văn nghệ, Lê Trâm - Chi hội trưởng Chi hội Văn học “lẩy vui” cái tựa ghi chép "Khúc Tây hành" của tôi rằng: Sang năm làm tiếp “Khúc trời hành...”! Sẽ thật như vậy ở một chừng mực nào đó. Đi, cái khao khát ấy nó rủ rê như lời níu gọi của tình yêu không kém phần mê hoặc, như lứa đôi đang kỳ thèm ấm nóng hơi nhau. Vậy là đến hẹn, chúng tôi lại đi.
Từ Tam Kỳ, chúng tôi ngược ra ngã ba Cây Cốc (Thăng Bình) đón bạn thơ Võ Bá, từ đó theo QL 14E trực chỉ thị trấn Tân An của huyện Hiệp Đức. Thái Bảo Dương Đỳnh, Nguyễn Cường đã đợi ở đó từ sớm, hội quân rồi cùng ngược lên Khâm Đức, để từ đó men theo dãy Trường Sơn hùng vĩ mà nhìn ngắm cho thỏa mộng lãng du quê xứ nước non mình. Đường xa vạn dặm thiên lý man man, mà lòng ham hố của con người thì không hạn định. Đành vậy, nên như kịch bản đã tạm thống nhất, chúng tôi dừng chân ăn trưa tại thôn 10 Phước Hiệp, trong nhà người em cũng đặt điều thơ phú Nguyễn Tư Phú Đông của tôi. Đây là xã thuộc vùng thấp nhất của huyện Phước Sơn tiếp giáp với Hiệp Đức, một ngôi làng lẻ loi giữa núi rừng, chỉ khoảng dưới một trăm hộ rải rác men theo QL 14E này và lẩn khuất những mái ngói đỏ nhấp nhô sườn núi trong miên man xanh của cây trái vườn nhà. Đa số là dân từ Hội An, Hiệp Đức, Quế Sơn lên lập làng từ những năm 60 của thế kỷ trước, đời sống của cư dân đã may mắn vượt qua được cái đận gian khó đói cơm lạt muối. Nay đây đó những ngôi nhà khang trang đẹp đẽ lần lượt được xây lên thay thế tranh tre dột nát một thời, ti vi xe máy đã lên đời, con em được hai buổi đến trường miệt mài “điện sách”. Bà con đang ngày càng nỗ lực vươn lên làm giàu bằng kinh tế vườn rừng, chăn nuôi và các dự án của nhà nước hỗ trợ...
Phước Sơn địa đầu vẫn còn nguyên mãn nhãn núi non hai bên đường, sự lãng mạn của tầm mắt đã được mở hết góc nhìn cho thỏa thuê cung đường cửa ngõ dẫn vào phố núi Khâm Đức. Đây là cung đường của thi ca nhạc họa bởi những cung bậc gợi mở, những giai điệu núi đồi biến tấu nhẹ nhàng mà dìu dặt, những trầm thiết sắc màu miên man mà âu yếm mắt nhìn, sự hào phóng đất trời đã ban phát riêng cho một khoảnh núi non hữu tình thơ mộng này sự uyển chuyển và mềm mại đầy nữ tính, như những sơn nữ vừa thẹn thùng e lệ nấp sau lưng bạn mà ngạc nhiên trước thán phục của xì xầm khách lạ, lại vừa không giấu giếm nỗi tự hào khi khoe cái đẹp quyến rũ độc đáo chỉ riêng mình. Một điểm nhấn bù trừ cho sự dữ dội và hùng vĩ, gãy gọn mà đột biến của đặc trưng núi rừng xứ Quảng. Xa kia, ngọn Xuân Mãi lừng lững đỉnh cao “Bài thơ nhờ đồng bào Phước Sơn đặt đề” của Trinh Đường tiên sinh, câu thơ như ám vào lòng những con người cũng vì tội nợ văn chương mà đánh đường tìm thi tứ. “Thiếu em anh biết dựa vào đâu/ Vắng em anh là cái nhà không cửa/ Đêm nay ôm trọn Phước Sơn mình/ Lấy cả núi rừng kê gối ngủ”. Ôi, tiên sinh còn có núi rừng để kê gối chớ nhóm hậu thế chúng em chưa biết đêm nay sẽ gởi giấc mộng lòng của mình vào chốn nơi nào, bởi chưng đoàn đi thực tế sáng tác lần này nằm ngoài kế hoạch, anh em lại sinh hoạt ở những cấp quản lý khác nhau: hội tỉnh, hội thành, hội CLB kể cả "hội viên" chả của hội nào... Chẳng qua thèm đi quá mà rủ nhau thôi. Vậy nên ngoài cái giấy giới thiệu của Hội VHNT Quảng Nam và mấy tờ công văn giới thiệu của Hội Văn nghệ Tam Kỳ thì đoàn coi như tự làm cuộc trường chinh bụi bặm thế thôi, không thật đủ điều kiện để liên hệ với chính quyền địa phương nhờ giúp đỡ. Vậy mà hình như ông xanh kia cũng còn thương những lứa học trò ham vui tối dạ của Tố Như, nên chi đi đến đâu cũng đều nhận được sự hậu đãi chí tình, khiến cả nhóm không ai không cảm động. 
Nhận được tin có nhóm văn nghệ sĩ đi thực tế sáng tác ghé ngang Khâm Đức, anh Phạm Phú Vinh, trưởng phòng VHTT Phước Sơn đã nhiệt tình tiếp đón, lo chỗ nghỉ ngơi qua đêm tại nhà khách Bưu Điện rồi xúm xít hàn huyên trong bữa cơm tối thâm tình. Cùng đến chung vui còn có mấy anh em khác nữa, đều là dân ít nhiều dính dáng đến văn hóa, văn nghệ cả. Chủ khách chuyện trò râm ran chuyện quê chuyện xứ, chuyện đất chuyện người, rồi thì những kỷ niệm một thời tuổi trẻ và công tác cứ kéo dài mãi bên ly rượu ấm nóng. Để thuận tiện cho chuyến “công cán” có phần đặc biệt của chúng tôi, bằng quan hệ thân hữu, anh Vinh đã liên lạc với đồng nghiệp tại huyện Ngọc Hồi tỉnh Kon Tum “gởi gắm”. Chỉ vài cuộc a lô những tưởng đưa đẩy thế thôi mà chúng tôi đã nhận được biết bao nhiêu ấm áp ân tình và sự giúp đỡ vượt quá mong ước của một chuyến lữ hành... Mới hay câu hát của cha ông mình ngày xưa vẫn mãi là bài học dặn dò không bao giờ cũ: “Khi xa chỗ ngõ cũng xa/ Khi gần Vĩnh Điện La Qua cũng gần...”.

II. Chiều mưa biên giới:
Khi đoàn chúng tôi vừa qua khỏi địa giới Quảng Nam, chạm đèo Lò Xo nổi tiếng thuở nào thì tất cả phải dừng lại. Ở Quảng Nam đang khi thời tiết vào độ nóng bức kinh người thì giờ đây trên đỉnh Trường Sơn, nơi vừa mới mon men vào xứ núi rừng Tây Nguyên cực Bắc, cả nhóm đã không thể nào chạy xe được nữa vì lạnh. Tôi hể hả ráp hai tay của chiếc áo bành dày trục được chuẩn bị sẵn để thi gan cùng sương gió thì anh em ai nấy đành phải lôi những chiếc sơ mi mỏng mảnh đem theo để mặc vào vài ba lớp, có anh vỏn vẹn hai chiếc áo quá mỏng không đủ ấm người, đành phải chơi luôn cả áo mưa tiện lợi. Tuy vậy cũng không hoài, con đèo quanh co trong chiến tranh đã thực sự được “kéo” ra cho bớt "lò xo" đúng như lời tuyên bố của tướng Đồng Sỹ Nguyên dạo ấy, nên có vẻ cũng đã bớt hung hiểm so với hình dung của chúng tôi và lời dặn dò cảnh báo của những người đã từng qua lại. Càng vi vu cái lạnh càng ngấm hơn, con đường trước mặt cứ thế quanh co giễu cợt và mời gọi. Sự quyến rũ càng làm say sưa bao ánh nhìn, áp suất không khí đã bắt đầu làm ù tai những chàng “kỵ xa” tân thời. Mặc, thấm béo gì kia chớ khi lòng mình được mở ra hào sảng trước trời đất bao la và núi rừng phóng khoáng. 
Chúng tôi chạy xe qua khu vực của huyện Đak Glei này bằng tâm thế của những kẻ xa nhà tí chút. Đây cũng chính là quê hương tục lệ “Củi hứa hôn” của đồng bào người Giẻ Triêng. Khi đến tuổi cập kê, các cô gái ở đây ngày ngày vào rừng lấy củi về để dành cho lễ bắt chồng. Cũng chính khu vực huyện Đăk Glei này, có ngã ba rẽ về hướng đông để đến Khu Bảo tồn thiên nhiên Ngọc Linh, nơi có giống sâm cực kỳ quý hiếm mà Quảng Nam cũng được hưởng phần ở mé đông bắc của ngọn núi hùng vĩ này. Rất tiếc thời gian và lộ trình đã không cho phép chúng tôi tìm đến, cũng như suốt chuyến đi đã phải nuối tiếc bỏ qua rất nhiều điểm đến đầy thèm muốn khác. 
Nếu ví von tuyến đường xuyên sơn chiến lược này là trục xương sống của Tổ quốc, thì địa phận của mỗi địa phương cấp huyện mà nó băng qua có thể xem như là một đốt xương sống. Những tên làng tên đất Đăk Man, Đăk Pék, Đăk Kroong v.v... mới mẻ với chúng tôi hứa hẹn những phát hiện nhiều hấp dẫn, giống như những mạch máu li ti dẫn dinh dưỡng nuôi hình hài Tổ quốc thiêng liêng. Dừng xe ở một đoạn đường quá đẹp, cái hùng vĩ nên thơ gợi bao nỗi tự hào khi trong huyết quản của mình ấm nóng dòng máu con Hồng cháu Lạc truyền dẫn từ đời này sang đời khác... Lòng xúc động thật sự dẫu chưa vụt hiện thành một tứ thơ, một đoạn văn nào nhưng ở mỗi tâm tình sâu kín nhất của chúng tôi, đã chia sẻ tỏ bày tình yêu quê hương đất nước mình một cách chân thành nhất...
Cơn mưa đầu mùa đón chúng tôi ở cuối xã Đăk Môn, đoạn chuẩn bị tiếp giáp với huyện Ngọc Hồi. Trời vừa mưa vừa nắng, từng dải nắng xuyên qua màn mưa trắng đục cứ chói chang vào mặt, gió vùn vụt bên tai, những hạt mưa quất xối xả vào mắt, vào mũi. Mặc, cứ thế chúng tôi vòng xe men theo những vách taluy sừng sững đỏ, men theo những vực thẳm hun hút mà trầm trồ sung sướng. Vút qua, vút qua quê hương mình, vút qua những bản làng nằm khiêm tốn đến đáng yêu bên những cánh rừng, bên những sườn núi thoai thoải gợi ra bao cảnh yên bình mộc mạc, vút qua những địa danh hào hùng máu lửa một thời chiến trận. Cứ thế, hết mưa lại nắng, những cơn mưa nắng thất thường dạo đầu cho một mùa mưa Tây Nguyên đến sớm... Khi đoàn đến được thị trấn Plây Kần - huyện lỵ Ngọc Hồi, thì đã quá trưa. Đã nhận lời giúp đỡ đoàn từ trước, anh Huỳnh Huy Quyền, một chàng trai Nghệ An, chuyên viên phòng VHTT huyện ra đón chúng tôi. Qua trao đổi, anh đưa ra nhiều đề xuất hấp dẫn, dẫu trong thâm tâm chúng tôi cũng đã nghĩ đến nhưng ngại làm phiền hà nên không dám ngỏ lời. Từ đó, Quyền làm một hướng đạo hết sức chu đáo và nhiệt tình, kể cho nghe nhiều thông tin quý giá về đất và người ở đây, giúp chúng tôi phần nào hình dung được nơi mình đang đặt chân đến. Đoàn xe nhằm hướng tây theo QL40 hướng về Cửa khẩu Quốc tế Bờ Y, nơi biên giới ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia. 
Trời ngày càng mưa to hơn, mặc dầu mỗi người đã trang bị đầy đủ áo đi mưa nhưng khi đến được ngã ba Đông Dương thì tất cả đã đẫm ướt, song vẻ hớn hở mừng vui vẫn tràn trề lên từng khuôn mặt. Sau khi làm thủ tục xuất cảnh, Quyền đưa chúng tôi qua bên kia biên giới, vào phần đất của bản Phu Cựa, huyện Phu Veng, tỉnh Attapư nước bạn Lào. Một cụm quán vùng biên chìm trong màn mưa sẫm tối, chúng tôi thưởng thức món xôi Lào dẻo thơm trong những chiếc giỏ đan nho nhỏ xinh xắn nhiều màu, món dế đặc sản của bạn và ly bia Lào đậm đà sưởi ấm cơn lạnh một chiều mưa biên giới hết sức thi vị. Những câu thơ Quang Dũng thấp thoáng hiện về... Cảm giác mình rời xa quê hương đất tổ đã hiện hình, dẫu rằng nơi đây trên phần đất bạn bình yên và hiếu khách, vẫn có chút cảm giác gì đó gợn buồn không phải cho riêng mình mà còn cho cả những ai đã vì nhiều lý do sinh cơ lưu lạc, thì nỗi ngậm ngùi cố xứ kia hỏi sao không canh cánh bên lòng!?...
Chúng tôi trở về trong màn mưa ngày càng “biên giới” hơn, gió biên giới kiêu hùng mà tiêu sái, chiều biên giới mờ xa ảm đạm làm vang lên trong vô âm câu thơ Đỗ Phủ ngậm ngùi. “Nhật mộ hương quan hà xứ thị/ Yên ba gian thượng sử nhân sầu...”. Ai ai cũng nghe trong tâm hồn mình dấy lên những cảm thức bâng khuâng kỳ thú. Một lần ngắn ngủi đặt chân ra khỏi lãnh thổ nước non nhà mà đã cảm khái biết chừng nào! 

III. Bên sông Đăk Bla
Để có được những cung đường phẳng lỳ rộng thoáng, đẹp đến ngẫu hứng, cho chúng tôi thả hồn mình mộng mơ thụ hưởng khoái cảm tê người khi đôi tay miên man say cùng chiếc ghi đông xe máy nuốt từng dặm trường xứ núi này. Đất và người Kon Tum đã phải làm một hành trình 100 năm đầy biến động, băng qua rừng thiêng nước độc, thú dữ và những bệnh tật núi rừng nhiệt đới thách thức niềm tin y học; băng qua tù đày lao dịch khổ sai; băng qua những cuộc đấu tranh không ngừng nghỉ... Đất và người Kon Tum đã viết nên trang huyết lệ riêng mình trong lịch sử chói ngời của dân tộc.
Hôm nay đi qua cứ điểm 601 kia, ai biết rằng đó là nơi từng được gọi là “Đồi Thịt Băm”. Chỉ riêng mỗi cái tên ấy thôi đã nói lên nhiều ám tượng mà sách vở khó có thể diễn đạt rốt ráo hơn. Chẳng biết ngoài bazan thổ nhưỡng ra, dưới mảnh đất này còn tố chất dinh dưỡng nào nữa được tìm thấy mà mỏi mắt hai bên đường mơn mởn non tơ của sắn, là thăm thẳm sắc màu cao su. Xa kia, những cánh rừng trồng nhiều lớp tuổi cứ kế tục hứa hẹn sự sung túc hôm nay và giàu có cho tương lai. Chỉ còn nghe vang vọng bên tai, lẫn trong tiếng gió vút là hình như còn cả tiếng máu lửa một trời Tân Cảnh, Đăk Tô thuở trước. Đây là một trong ba chiến trường khốc liệt nhất trên toàn miền Nam vào mùa hè đỏ lửa năm 1972. Hôm nay vẫn còn biết bao nhiêu nắm xương đang âm thầm dưới từng gốc cây ngọn cỏ, dưới từng khe suối đáy sông, bên những thung lũng nhọc nhằn chưa quên ầm vang bom đạn, lẩn khuất bên những cánh rừng... Từng linh hồn ấy vẫn ngày đêm theo từng ngọn gió lảng vảng trong khuya khoắc đợi chờ ngày đoàn viên. Vì vậy, trong từng sắc độ của phì nhiêu cây trái kia, làm sao rạch ròi cụ thể nổi giá trị của những năm tháng yên bình. Sự hàm ơn của lòng người hôm nay dứt khoát không được một phút giây nào phai nhạt.
Chúng tôi đến bên bờ sông Đăk Bla trời đã ngả sang chiều, trong ánh hoàng hôn, phố núi dường như vương vấn chút buồn sơn cước. Nhìn từ xa, tổng thể không gian nơi đây làm ta liên tưởng đến một chiếc nỏ khổng lồ đã kéo căng hết cỡ, mà tay nỏ chính là cây cầu Đăk Bla hiện đại nối thông QL14 hướng về phía tỉnh Gia Lai. Thượng và hạ lưu dòng Đăk Bla ở hai bên cầu làm cánh nỏ uốn cong. Theo một đường tưởng tượng, thì khi ta bật mũi tên lao vút đi lại bung nở ra thành một trời pháo hoa nhiều sắc màu rực rỡ trước chiếc nỏ diệu kỳ ấy, đó là hoa viên đầy những kỳ hoa dị thảo phía Bắc của cầu đang chen đua khoe gió... 
Đến thăm Nhà Ngục Kon Tum trong cơn mưa đan le lói ánh chiều. Những đám mây sũng nước làm cho khung cảnh thêm thê thiết, gợi nhớ đến một thời lầm than nô lệ, một thời dân tộc đã lê bước chân xích xiềng nước mất nhà tan, trên vai nặng đầy sưu cao thuế nặng. Lòng tôi không thể nào vui lên được trước nỗi niềm này. Thì sờ sờ ra đó, những gông cùm cũ kỹ còn lưu giữ luôn nhắc ta, những roi vọt tù đày ấy làm sao một sớm một chiều có thể nguôi khuây trong nhớ nghĩ.
Chúng tôi ghé vào quán cà phê vỉa hè nghỉ chân. Nhà thơ Tạ Văn Sỹ đến ngay khi vừa nhận được tin. Sau cái bắt tay, anh đã mau mắn hỏi kế hoạch cụ thể về thời gian, nơi ăn nghỉ của đoàn. Quả là cái tình văn nghệ đậm đà và thực tế đến xúc động. Lúc sau, có thêm hai bạn thơ nữa đến chơi: Trương Anh Tài, hội viên trẻ của Kon Tum và Từ Dạ Linh, con dân Thăng Bình đang làm báo ở đây. Thôi thì không biết bao nhiêu là chuyện để nói, chỉ thiếu mỗi đọc thơ thôi là đủ một cuộc giao lưu thú vị. Bữa cơm tối đãi bạn không kém phần sang cả ở một quán ăn đặc sản phố núi do Tạ Phúc Đoan, con gái rượu của Tạ Văn Sỹ chiêu đãi bởi một lý do rất đáng yêu: Đoan là dâu Tiên Phước, Quảng Nam. Cuộc vui còn có mặt của nhà thơ Lại Hữu Kim, Chủ tịch hội VHNT Kon Tum; anh Nguyễn Văn Long, Chủ tịch Hội Nhà báo Kon Tum; anh Đặng Thành Long, Chánh Văn phòng UBND tỉnh cùng mấy anh em khác nữa. Cũng chính anh Long (ủy ban) này là người lo sắp xếp để đoàn được nghỉ đêm tại nhà khách sang trọng của tỉnh. Những tưởng thế cũng quá thâm tình, ai dè anh Long (nhà báo) dứt khoát phải mời anh em dự “tăng hai” ở một quán khác, thật ra là để tìm không gian phù hợp hơn với một đêm giao lưu văn nghệ bạn bè. Rồi thì thơ, thì nhạc, dân ca, chuyện tiếu lâm, chuyện của đất và người Quảng Nam, Kon Tum. Quảng Ngãi, Bình Định... cứ thế nối nhau suốt một đêm bầu bạn.

IV. Thơ mộng Măng Đen và hoang liêu Violăc
Nhà thơ Tạ Văn Sỹ đưa chúng tôi đến tận cửa ngõ phía đông thành phố Kon Tum, nơi bắt đầu của QL24 xuống đồng bằng mới "chào nhau ở giữa con đường" (Bùi Giáng). Từ đây, chuyến đổ dốc miên man không biết đến bao giờ mới thôi. Chúng tôi lại đi qua những thôn xóm đã ngày càng thay da đổi thịt, những núi đồi nhấp nhô xanh trong nắng gió. Lại những sắn là sắn, sắn cơ hồ tươm lên những dòng mật ấm no trên từng đọt lá non hồng hào bụ bẫm. Lại cơ man là cao su, từng khoảnh dài vuông vắn và tăm tắp đội ngũ. Phía dưới xa kia, Măng Đen - khu du lịch sinh thái nghỉ dưỡng cao cấp đang chờ, nghe nói môi trường và cảnh quan nơi đây được mọi người ví là một Đà Lạt thu nhỏ. 
Thật vậy, sau nhiều giờ chạy xe, qua con đèo Măng Đen hao hao Hải Vân, thị trấn Măng Đen (huyện Kon Plong) đón chúng tôi bằng những cánh rừng thông đặc chủng tỏa bóng xuống hai bên đường... Theo giới thiệu của nhà thơ Tạ Văn Sỹ, anh Đinh Su Giang, giáo viên trường PTDT Nội trú Măng Đen, Hội viên Hội VHNT Kon Tum đón chúng tôi niềm nở như bạn bè đã thân thiết tự khi nào. Cuộc rượu đạm bạc bày ra giữa nền nhà trong căn hộ tập thể nhỏ bé mà đáng yêu của vợ chồng Giang. Ngoài kia trời đã nhòa nhạt từng mảng sương nhẹ mỏng, như chiếc khăn duyên dáng choàng lên vai núi đồi, từng ngọn gió đêm len lỏi thổi qua những cánh rừng mơ màng ngủ. Chúng tôi lại chắp nối những khúc ca tha thiết một thời... 
Khi ánh ngày chưa kịp hửng lên trọn vẹn trên mảnh đất này, chúng tôi lại lục tục chuẩn bị cho một buổi sáng thăm thú còn nhiều ham hố. Giang đưa chúng tôi đi thăm thác PASỸ, còn gọi là Thác Tóc. Sở dĩ có tên gọi này là bởi từ độ cao khoảng mươi lăm mét, một con thác nước mỏng đều như sương đổ xuống và tỏa bay trong gió, nhìn xa như mái tóc thiếu nữ đẹp đến hoang sơ. Bên cạnh cổng vào thác là khu vườn tượng rộng lớn trên một ngọn đồi, ở đây trưng bày giữa trời, dưới những tàng cây rừng hàng trăm bức tượng gỗ mô tả con người và các loại chim thú. Tuy không rành về điêu khắc nhưng chúng tôi cũng tìm thấy được những nét biểu cảm hết sức thú vị trên từng khuôn mặt tượng, chứng tỏ nó được sáng tạo bởi những bàn tay nghệ sĩ tài hoa, của những tộc người tài hoa còn lưu giữ những vốn quý bao đời ông cha truyền lại.
Xuôi đèo Violăc. Không biết chiều dài thực sự của con đèo là bao nhiêu, chỉ biết xuất phát từ khoảng gần trưa, thế mà với tốc độ trung bình khoảng 40 cây số giờ, thi thoảng dừng lại dăm ba phút để chụp hình lưu niệm, chúng tôi phải chạy xe đến hơn bốn giờ đồng hồ mới coi như tạm xuôi xuôi ở địa phận ngã ba Ba Tơ, Nghĩa Hành của tỉnh Quảng Ngãi. Khi được mình tự cầm tay lái xe máy đổ dốc qua những cung đường quanh co, hun hút dưới những tán rừng hiu quạnh là cái thú không thể diễn tả được. Gió cứ thổi qua không mệt mỏi, đường thì quạnh không một bóng người, không một bóng xe, đi như đi vào nơi chốn chưa từng ai khai phá, sự đơn độc lẻ loi ấy làm cho mình được là mình trọn vẹn nhất... Đất nước mình có rất nhiều đèo. Những đèo Ngoạn Mục ở tuyến đường lên thành phố Đà Lạt, đèo Hải Vân “Đệ nhất hùng quan”, đèo Hòn Giao - Khánh Lê của tỉnh Khánh Hòa, đèo Ngang thơ mộng của Bà Huyện Thanh Quan, rồi những đèo Mang Zang, An Khê trên tuyến QL19, đèo Cù Mông, đèo Cả, đèo Rù Rì... Mỗi con đèo đều nên thơ và hùng vĩ, khó có thể nói nơi nào đẹp hơn, thơ mộng hơn. Điều có thể giải minh cho cái đẹp của Violăc có lẽ ở sự hoang sơ, khiêm tốn và có phần hiu hắt, quạnh quẽ của nó. Rừng thì vẫn trầm hùng đấy nhưng chưa đủ nghĩa đại ngàn, đường thì vẫn uốn lượn quanh co khúc khuỷu đấy nhưng vẫn còn chút mặc cảm thua thiệt...
4 đêm, 5 ngày, chúng tôi đi qua hơn 700km đường thiên sơn vạn lý, mưa nắng thất thường, gió sương dầu dãi, qua bao làng mạc, qua biết bao nhiêu yêu thương ấm áp,... Điều để lại trong nhớ nghĩ mỗi người thì chẳng thể nào đo đếm được, chỉ ôm ấp trong lòng một tình yêu thiết tha về bầu bạn, về con người và quê hương đất nước, như một tứ thơ ngân rung giữa tâm hồn. Tiếc thay tài sơ trí mọn không thể tạo tác nên một bản trường ca đủ nghĩa hàm ơn bao thế hệ máu xương đã hiến mình cho trời đất của ta hôm nay dài rộng nguy nga trong dáng hình giang sơn cẩm tú...
N.Đ.D
Quay về
Văn
Bài thơ sông núi
Tình cha
Khuya xa
Ám ảnh thu
Người viết điếu văn cho mình
Thơ
Vòng tay bất tử
Ghi chép dọc đường
Câu Lâu
Mẹ kế
Người dưng
Cánh đồng khói
Tác phẩm
Thiền
Lệ phố
Thu và em
Ngộ
Thời vụ
Rót tiếng guitar
Em viên mãn anh sợ mình nông nổi
Cháy
Chỉ là
Sau những ngày rối loạn tiền đình
Sông bấc
Giọt sương
Thôn nhỏ
Ở đây
Yêu thầm
VĨNH BIỆT NHÀ THƠ VŨ MINH
Nghiên cứu-Lý luận-Phê bình
Cõi mộng và điên trong thơ Bùi Giáng
Đọc Gác chân lên cô đơn
Một tâm hồn thơ Hội An
Một thoáng Vũ Minh
TRÀ DƯ TỬU HẬU
Những vần thơ... nghịch
Văn học-Học văn
Lời hứa
Nhip sống văn nghệ-Hộp thư
Nhịp sống văn nghệ
Hộp thư