|  Đăng nhập
Select the search type
 
  • Site
  • Web
Search

 

Tiêu đề: NGƯỜI " VỠ NÚI MỞ ĐƯỜNG" CHO VĂN HỌC NỮ VIỆT NAM
Tác giả: Hoàng Hương Việt


Cuốn Tây phương mỹ nhân của nữ sĩ Huỳnh Thị Bảo Hòa từ bản sách xuất bản lần thứ nhất, do nhà Bảo Tồn - Sài Gòn in năm 1927, đến khi nhà nghiên cứu văn học Lại Nguyên Ân phát hiện, tìm lại được vào năm 2001, và năm 2003, nhà nghiên cứu văn hóa Thi Hảo - Trương Duy Hy sưu tầm biên soạn in lại trong cuốn Huỳnh Thị Bảo Hòa - người phụ nữ đầu tiên viết tiểu thuyết (gồm 3 tác phẩm: Tây phương mỹ nhân, Chiêm Thành lược khảoBà Nà du ký) do NXB Văn học ấn hành, là cuộc hành trình dằng dặc của một tác phẩm văn học ngót nghét 85 năm (kể cả lần tái bản thứ 3, năm 2010, có bổ sung thêm kịch bản tuồng Huyền Trần công chúa). Trên hai phần ba thế kỷ, tôi mới đọc được toàn bộ các trước tác của nữ sĩ và một số bài viết xung quanh cuốn sách đăng trên các báo QN-ĐN, Tạp chí Đất Quảng, Non Nước, Xưa và nay, Văn học, Khoa học và phát triển...

Trong thế giới sách thuần Việt vừa đa dạng, phong phú và cũng lắm xô bồ trong thập niên đầu thế kỷ XXI, tôi đã đọc Huỳnh Thị Bảo Hòa như một sự tự thân cuốn hút, khám phá, suy gẫm bởi những lý do bắt nguồn sự cảm phục từ nhiều người, nhiều chiều, nhiều phía xung quanh cuốn sách, mà đến hôm nay mới có điều kiện nhìn lại một tác phẩm, một con người, một thời đại.

Tôi muốn lấy mấy từ “vỡ núi mở đường” của nhà báo, nhà cách mạng Huỳnh Thúc Kháng, dưới danh nghĩa Tiến sĩ, Viện trưởng Trung Kỳ nhân dân viện, viết lời đề tựa cho cuốn Tây phương mỹ nhân đặt tên cho bài viết nhỏ này.

Cụ Huỳnh, một con người lăn lộn trong “trường văn trận bút” đã dành tình cảm, không tiếc thời gian, lời lẽ viết bài từ giới thiệu cho một tác phẩm mà cụ vừa mới đọc qua đã không ngần ngại hạ bút tự so sánh mình, như cụ nói: “Cũng dè chút công trong xã hội một đôi điều thật sự”. Cụ nêu gương những nữ kiệt thuở xưa như “Bà Trưng, Bà Triệu, bà Phạm Thị Thuấn, bà Nguyễn Thị Kim” còn các bậc “khuê tú như Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Diệu Liên công chúa đều là nữ sĩ...”. Cụ nói đến tiểu thuyết, một thể loại lợi hại, khó viết, Âu Tây, Nhật, Tàu “đương lúc canh tân, tiểu thuyết rất là thịnh hành, có sức mạnh ngấm ngầm, làm cho xã hội nảy được những tư tưởng mới...”, “tiểu thuyết mới thành ra một thứ lợi khí truyền bá trong xã hội...”.

Tiểu thuyết ở nước ta đang còn trong lúc nảy chồi, mọc mống, trong đám mày râu cũng mới xuất hiện một đôi bản như “Quả dưa đỏ”, “Cảnh thu di hận” v.v... còn nữ giới thì thật chưa có”. Cụ nói rộng ra chỉ để khắc họa “Nay bà (chỉ nữ sĩ Bảo Hòa) đem cái thì giờ quí báu mà làm được bản này (tức tiểu thuyết Tây phương mỹ nhân), lấy cái học thức sở đắc mà ra công thêu dệt, để tự tạo cho thành một nhà văn trong nữ giới, cái công vỡ núi mở đường, thật không những ngọn cờ tiên phong cho đạo quân “nương tử” trong làng quần thoa...”.

Trên đây, tôi chỉ trích dẫn một số câu trong bài tựa như một áng văn ấm áp tình tiết, con người, sự việc của cụ Huỳnh để thấy hết cái thâm bác, cái tâm, cái tình và sự trong sáng của bậc trí giả dành viết về người nữ sĩ như một “vì sao vụt sáng giữa văn đàn”, mà cụ cho là “Ngọn cờ tiên phong cho đội quân nương tử trong nữ giới ta cũng thật ít có. Chúng ta hoàn toàn có cơ sở và sự kính trọng cụ, đã phát hiện ra một tài văn Huỳnh Thị Bảo Hòa, tìm thấy một cây bút nữ sớm tỏa sáng, có sức vóc văn chương thấm đẫm triết lý nhân văn đằm sâu, mượt mà, để không ngần ngại đặt bút viết “lời giới thiệu” chân tình, cởi mở và sâu sắc đến thế. Ở cương vị cụ, có lẽ không dễ gì cụ nhận làm ngay cái việc “thảo lời tựa” cho tác phẩm đầu tay của một ai đó, nếu đấy không phải là tác phẩm văn học đích thực.

Ở trường hợp nữ sĩ Huỳnh Thị Bảo Hòa với Tây phương mỹ nhân, những lời vàng, thước ngọc của cụ Huỳnh vẫn còn nguyên giá trị, khi cụ không tiếc lời khen ngợi, xác tín và đánh giá trung thực, chân xác để chúng ta ngày nay có cơ sở tìm hiểu, nghiên cứu và đọc tác phẩm, tác giả này mà không ngại có sự nhầm lẫn, hoặc quá lời trước cuốn tiểu thuyết ra đời đầu tiên ở nước ta nửa đầu thế kỷ XX.

Cùng với cụ Huỳnh, thi gia Tản Đà - Nguyễn Khắc Hiếu, khi đến Đà Nẵng, gặp gỡ nữ sĩ Huỳnh Thị Bảo Hòa từng một thời “Có văn lai cảo cho An Nam tạp chí khi xưa” đã viết lời để tặng tác giả và nhận xét tác phẩm: “Tây phương mỹ nhân có trọng giá nhất, còn ngoài ra, văn từ có phần lưu hoạt, cảm tưởng nhiều mối khích ngang, lại vở tiểu thuyết thứ nhất của trong bạn quần thoa mới soạn ra”. Và cụ viết lời cuối cùng: “Kính đưa trình bà Vương Khả Lãm (tức Huỳnh Thị Bảo Hòa).

Ở đây, mấy từ “Kính đưa trình” mà cụ Tản Đà viết là sự biểu lộ lòng mến mộ, cảm phục của cụ đối với tác giả ở hai khía cạnh: Một là tình tiết và nội dung cốt truyện đầy tính nhân văn, tiết nghĩa, lễ tục của đôi vợ chồng người Pháp, người Việt thật hiếm có, được cấu tạo, thể hiện bằng một nghệ thuật hành văn hấp dẫn. Hai là tác phẩm văn xuôi quốc ngữ thứ nhất trong giới phụ nữ cầm bút viết tiểu thuyết mới soạn ra lúc bấy giờ.

Đồng thời với hai nhân vật trên đây là chủ bút Đông Pháp thời báo, Bùi Thế Mỹ ở Sài Gòn được nữ sĩ nhờ ông “nhuận sắc” “rồi trông nom xuất bản” tiểu thuyết Tây phương mỹ nhân. Nhà báo Bùi Thế Mỹ lại viết lời tựa, ông cho rằng: “Lối tản văn ở nước ta xưa nay chưa thịnh hành, tuyệt nhiên chưa có. Nay tiểu thuyết Tây phương mỹ nhân của bà Vương Khả Lãm (Huỳnh Thị Bảo Hòa) ra đời. Song có một điều, là nếu pho sử văn học của nước ta mà có ngày xuất thế, thời tôi tin rằng tiểu thuyết Tây phương mỹ nhân của bà Vương Khả Lãm đây cũng sẽ được liệt vào trong thời kỳ thứ nhất của mục văn tiểu thuyết đàn bà vậy!”.

Ba vị học giả lão làng gần như sống và làm việc ở ba miền Trung - Nam - Bắc nói về tác giả, tác phẩm một cách sâu sắc, cởi mở, bộc trực như vậy hẳn không phải là một sự ngẫu nhiên.

Huỳnh Thị Bảo Hòa là con nhà dòng dõi, có học, cha làm quan dưới triều Nguyễn và có tham gia phong trào Cần Vương Quảng Nam. Chồng bà, ông Vương Khả Lãm, được phong tước Hàn lâm Đại học sĩ, có kết giao với các học giả, chí sĩ yêu nước ở Quảng Nam, Đà Nẵng như: Lê Bá Trinh, Dương Hiển Tiến, Lê Văn Chiếu, Hồ Đắc Trung. Nữ sĩ được học chữ quốc ngữ, chữ Hán, chữ Pháp thông thạo, ham đọc sách báo và có tư tưởng tiếp thu tinh thần duy tân của các phong trào yêu nước vận động. Nữ sĩ được xem là một phụ nữ cấp tiến, tiến bộ ở đất Quảng, tìm cách tham gia các hoạt động xã hội như diễn thuyết, hô hào phụ nữ đi học chữ quốc ngữ, thực hiện nếp sống mới. Nữ sĩ tiên phong trong việc cắt tóc ngắn, mặc âu phục, đi xe đạp. Khi chí sĩ Phan Châu Trinh qua đời (1926), nữ sĩ tham gia tổ chức lễ truy điệu tại Đà Nẵng, sau đó vận động bà con, bạn bè đóng góp xây dựng Nhà tưởng niệm cụ Phan tại đây. Khi có tổ chức Nữ công học hội ra đời, nữ sĩ được cử làm Hội trưởng ở Đà Nẵng. Con cái của nữ sĩ đều tham gia cách mạng, có con gái là liệt sĩ trong kháng chiến chống Pháp. Trong những năm chiến tranh vợ chồng nữ sĩ sống thanh đạm, âm thầm đón đợi ngày quê hương giải phóng, đất nước thống nhất hòa bình.

Nhưng có lẽ tên tuổi của nữ sĩ Huỳnh Thị Bảo Hòa được biết đến lúc bấy giờ là trên văn đàn, báo chí. Bà đã cộng tác cho các báo có tiếng vang như Thực nghiệp dân báo, Nam Phong, Tiếng Dân, Đông Pháp thời báo, Phụ nữ tân văn v.v... Các chủ bút coi nữ sĩ là cây bút “thông tín viên” chủ lực, năng nổ, có bút lực dồi dào, viết được nhiều thể loại, nhiều lĩnh vực.

Đọc các thể loại tác phẩm của nữ sĩ Bảo Hòa có thể thấy ngay nét tài hoa, thông minh và tư duy mới, lạ trong từng đề tài và lối viết, phong cách viết không lẫn với một tác giả nữ nào. Bà Nà du ký của bà là một thiên bút ký, phóng sự, điều tra, đặc tả ăm ắp tình tiết sự kiện, cảnh vật, con người, phong tục tập quán đến "nhân tình thế thái", bối cảnh xã hội. Cũng có nghĩa là những suy tư, dằn vặt, bức bối, cắn xé nội tâm nữ sĩ về thân phận của người nghèo khổ, sự xâm lăng của kẻ thù, gây nên bất công xã hội, số phận dân tộc... bằng bút pháp, câu chữ đau đáu, nhất là những câu thơ đầy tâm sự mà nữ sĩ gửi gắm: Cất ngòi bút láng lai dòng lệ mực!/ Đoái non sông man mác khói mây tuôn.

Không chỉ trong Bà Nà du ký, mà trong các tác phẩm Tây phương mỹ nhân, Chiêm Thành lược khảo và tuồng Huyền Trân công chúa là những trang viết thấp thoáng như chính dòng nước mắt của nữ sĩ, khi nhìn quê hương, đất nước còn đang chìm đắm bể dâu. Cái lớn lao của một tài văn là sự cảm thức, trái tim, tâm hồn lay động tận cùng trong sự vây bọc của hiện thực cuộc sống.

Đến hôm nay tên tuổi và sự nghiệp của nữ sĩ Huỳnh Thị Bảo Hòa đã được tác thành đưa vào văn học sử nước nhà qua các công trình Từ điển văn học, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Tổng tập văn xuôi lãng mạn Việt Nam, Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam, Kỷ lục Việt Nam, và sách của nữ sĩ cũng được xuất bản, tái bản.

H.H.V


Quay về
VĂN
THÔN NỮ DÂU TẰM
TRỞ VỀ...
DUYÊN DÁNG GIÊNG HAI
NGHỀ CẮT KHÓA
SÓNG CỦA BIỂN
THƠ
BÓNG MẸ BÊN TRỜI
MẸ VÀ XUÂN
QUÊ NGOẠI
VÀ HƠI THỞ MẶT TRỜI
KHAI TÂM
VẤN XUÂN
BỖNG NHIÊN HOA SƯA
BỒI HỒI THÁNG GIÊNG
NGƯỜI XA QUÊ CÓ NHỚ LÀNG?...
MƯA THÁNG GIÊNG
ĐỨNG + KẺ TRỘM CHỮ
CHIM HÓT XANH VƯỜN MẸ + CỎ XANH
SẺ NÂU BAY XA + BẦY THIÊN NGA BAY ĐI
TRÔI + NGHĨ VỤN
VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI
NƠI KHÔNG THỂ QUAY ĐẦU LẠI
NGHIÊN CỨU - LÝ LUẬN - PHÊ BÌNH
NGƯỜI " VỠ NÚI MỞ ĐƯỜNG" CHO VĂN HỌC NỮ VIỆT NAM
SỰ TƯƠNG ĐỒNG CỦA BỐN BÀI THƠ KHÁNG CHIẾN
TRỊNH SƠN - NGƯỜI VIẾT TRẺ
ĐÒ LÈN, TRÁI CHÍN TỎA HƯƠNG